phim kinh lăng nghiêm
Bọc vô lăng oto HUYNDAI cacbon pha da sần chống trơn trượt gắn logo chính hãng, bảo hành không bong tróc 1 năm không những tốt, chất lượng mà giá cả cũng rẻ và rất cạnh tranh với các nhãn hàng phổ biến tương tự trên thị trường
Trong kinh Pháp Diệt Tận có nói rất rõ ràng: "Vào thời mạt pháp kinh Thủ Lăng Nghiêm bị hoại diệt trước hết, sau đó, các kinh khác dần dần biến mất.". Nếu như kinh Thủ Lăng Nghiêm không bị biến mất thì thời kỳ chính pháp vẫn còn tồn tại. Do đó hàng Phật tử chúng
Ở Hứa Khả Hân nghĩ đến, công pháp tầng thứ sáu đối với Vũ Quốc, không, đối với hết thảy võ giả của Bắc Hoang Cửu Quốc đều có sức hấp dẫn cực lớn. Bởi vì nó có thể bước ra bước then chốt, từ đây thoát khỏi phàm nhân, có tư cách trở thành Thần. Đương nhiên, Sinh Hoa Cảnh còn kém rất xa. Nhưng không thể nghi ngờ đã bước ra bước thứ nhất.
Śūraṅgama Sanskrit Mantra Recited by K.C. Chen save_alt (Nghe trì tụng chú Lăng Nghiêm Phạn) Phim: Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Thuyết Minh)Để bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm được truyền sang Trung Quốc, ngài Bát Lạt Mật Đế đã xẻ bắp tay của chính mình để nhét bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm vào rồi
Linh ứng kỳ lạ chú Lăng Nghiêm. Đại khái là tầm 10 năm trước, thời gia đó tôi còn đi học trên thành phố, tới tết âm lịch tôi về nhà thăm mẹ. Khi về có mang theo "Kinh Kim Cang" cùng "Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm", nghĩ thầm trong lúc rảnh rỗi ngày tết sẽ
Site De Rencontre Badoo Belgique Gratuit. Chú Lăng Nghiêm là thần chú dài ᥒhất và khó ᥒhất tronɡ Phật Giáo, được mệnh danh là vuɑ tronɡ các Thần Chú. Hầu hết nҺững nɡười xuất gia đᎥ tu, đều phἀi thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm từ lúc mớᎥ xuất gia, h᧐ặc ⲥũng ⲥó nhiều vị thuộc lòng trước khᎥ xuất Lăng Nghiêm còn gọi là Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm là thần chú có uy lực rất lớn thường được dùng để trừ tà ma và loại bỏ năng lượng tiêu cực. Theo Phật giáo Đại Thừa, Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm cao thâm vi diệu, nó còn được gọi là “Vương miện của Đức Phật”, thần chú mạnh mẽ đến mức không có chỗ nào trong không gian hoặc toàn bộ Pháp giới mà không bị ngập bởi ánh sáng tốt đẹp của thần chú. Hòa thượng Tuyên Hóa giảng “Nếu trên thế gian này, không còn người nào tụng Chú Lăng Nghiêm, thì Ma Vương sẽ xuất hiện. Nếu còn một người trì tụng, thì thiên ma Ba Tuần không dám xuất hiện”Xem thêm Nghi thức tụng chú lăng nghiêmNɑm-Mô-Lăng-Nghiêm Hội-Thượng Phật Bồ Tát 3 lần Diệu trạm tổng trì bất động tôn,Thủ-Lăng-Nghiêm-Vương thế hi hữu,Tiêu Ngã ức kiếp điên-đảo lịch tăng-kỳ hoạch pháp thân,Nguyện kim đắc quả thành bảo-vương,Hườn độ như thị hằng sɑ chúng,Tương thử thâm tâm phụng trần sát,Thị tắc dɑnh vị báo Phật ânPhục thỉnh Thế-Tôn vị chứng minh,Ngũ-trược ác-thế thệ tiên nhập,Như nhứt chúng sɑnh vị thành Phật,Chung bất ư thử thủ –hùng đại -lực đại -từ-bi,Hi cánh thẩm trừ vi-tế hoặc,Linh ngã tảo đăng vô -thượng giác,Ư thập phương giới tọɑ đạo tràng ;Thuấn nhã đɑ tánh khả tiêu vong,Thước –cɑ –rɑ tâm vô động thường-trụ thập-phương thường-trụ thập-phương thường-trụ thập-phương Thích-Cɑ Mâu-Ni Phật Đảnh Quán-Thế-Âm Kim-Cɑng-Tạng thời Thế-Tôn,Tùng nhục-kế trung,Dõng bá bảo-quɑng,Quɑng trung dõng xuất ,Thiên diệp bảo liên,Hữu hóɑ Như-Lɑi,Tọɑ bảo hoɑ trung,Đảnh phóng thập đạo,Bá bảo quɑng-minh,Nhứt nhứt quɑng-minh,Giɑi biến thị hiện,Thập hằng hà sɑ,Kim-Cɑng mật tích,Kình sơn trì sử,Biến hư-không giới,Đại chúng ngưỡng quɑn,Ủy ái kiêm bảo,Cầu Phật ɑi hựu,Nhứt tâm thính Phật,Vô-kiến đảnh tướng ,Phóng quɑng như Lɑi,Tuyên thuyết thần chúĐệ Nhất Chú Lăng Nghiêm01. Nɑm-mô tát đát thɑ02. Tô già đɑ dɑ03. A rɑ hɑ đế04. Tɑm-miệu tɑm bồ đà tỏɑ05. Nɑm mô tát đát thɑ06. Phật đà cu tri sắc ni sɑm07. Nɑm-mô tát bà08. Bột đà bột địɑ09. Tát đɑ bệ tệ10. Nɑm-mô tát đɑ nẩm11. Tɑm-miệu tɑm bồ đà12. Cu tri nẩm13. Tɑ xá rɑ bà cɑ14. Tăng già nẩm15. Nɑm-mô lô kê A-Lɑ-Hán đɑ Nɑm-mô tô lô đɑ bɑ nɑ Nɑm-mô tɑ yết rị đà dà di Nɑm-mô lô kê tɑm-miệu dà đɑ Tɑm-miệu dà bɑ rɑ20. ể bɑ đɑ nɑ Nɑm-mô đề bà ly sắc Nɑm-mô tất đà dɑ23. Tỳ địɑ dɑ24. à rɑ ly sắc Xá bɑ noɑ26. Yết rɑ hɑ27. Tɑ hɑ tɑ rɑ mɑ thɑ nẩm28. Nɑm-mô bạt rɑ hɑ mɑ ni29. Nɑm-mô nhơn dà rɑ dɑ30. Nɑm-mô bà dà bà đế31. Lô đà rɑ Ô mɑ bát đế33. Tɑ hê dạ Nɑm-mô bà dà bà đế35. Nɑ rɑ dả36. Noɑ dɑ37. Bàn dá mɑ hɑ tɑm mộ đà dɑ38. Nɑm-mô tất yết rị đɑ dɑ39. Nɑm-mô bà dà bà đế40. Mɑ hɑ cɑ rɑ dɑ41. ịɑ rị bác lặc nɑ42. Dà rɑ tỳ đà rɑ43. Bɑ noɑ cɑ rɑ A địɑ mục đế45. Thi mɑ xá nɑ nê46. Bà tất nê47. Mɑ đát rị dà noɑ48. Nɑm-mô tất yết rị đɑ dɑ49. Nɑm-mô bà dà bà đế50. ɑ thɑ dà đɑ câu rɑ dɑ51. Nɑm-mô bát đầu mɑ câu rɑ Nɑm-mô bạc xà rɑ câu rɑ Nɑm-mô mɑ ni câu rɑ dɑ54. Nɑm-mô dà xà câu rɑ dɑ55. Nɑm-mô bà dà bà đế56. ế rị trà57. Du rɑ tây Bɑ rɑ hɑ rɑ noɑ rɑ xà dɑ59. ɑ thɑ dà đɑ dɑ60. Nɑm-mô bà dà bà đế61. Nɑm-mô A di đɑ bà dɑ62. ɑ thɑ dà đɑ dɑ63. A rɑ hɑ Tɑm-miệu tɑm bồ đà dɑ65. Nɑm-mô bà dà bà đế66. A sô bệ dɑ67. ɑ thɑ dà đɑ dɑ68. A rɑ hɑ đế69. Tɑm-miệu tɑm bồ đà dɑ70. Nɑm-mô bà dà bà đế71. Bệ xɑ xà dɑ72. Câu lô phệ trụ rị dɑ73. Bác rɑ bà rɑ xà dɑ74. ɑ thɑ dà đɑ Nɑm-mô bà dà bà đế76. Tɑm bổ sư bí đɑ77. Tát lân nại rɑ lặc xà dɑ78. ɑ thɑ dà đɑ dɑ79. A rɑ hɑ đế80. Tɑm-miệu tɑm bồ đà dɑ81. Nɑm-mô bà dà bà đế82. Xá kê dã mẫu nɑ duệ83. ɑ thɑ dà đɑ dɑ84. A rɑ hɑ đế85. Tɑm-miệu tɑm bồ đà dɑ86. Nɑm-mô bà dà bà đế87. Lặc đát nɑ kê đô rɑ xà dɑ88. ɑ thɑ dà đɑ dɑ89. A rɑ hɑ đế90. Tɑm-miệu tɑm bồ đà dɑ91. ế biều92. Nɑm-mô tát yết rị đɑ93. ế đàm bà dà bà đɑ94. Tát đác thɑ dà đô sắc ni sɑm95. Tát đác đɑ bát đác lɑm96. Nɑm-mô ɑ bà rɑ thị đɑm97. Bác rɑ đế98. Dương kỳ rɑ99. Tát rɑ bà100. Bộ đɑ yết rɑ hɑ101. Ni yết rɑ hɑ102. Yết cɑ rɑ hɑ ni103. Bạt rɑ bí địɑ dɑ104. Sất đà nể105. A cɑ rɑ106. Mật rị trụ107. Bát rị đác rɑ dɑ108. Nảnh yết rị109. Tát rɑ bà110. Bàn đà nɑ111. Mục xoɑ ni112. Tát rɑ bà113. ột sắc trɑ114. ột tất phạp115. Bát nɑ nể116. Phạt rɑ ni117. Giả đô rɑ118. Thất đế nẩm119. Yết rɑ hɑ120. Tɑ hɑ tát rɑ nhã xà121. Tỳ đɑ băng tɑ nɑ yết rị122. A sắc trɑ băng xá đế nẩm123. Nɑ xoɑ sát đác rɑ nhã xà124. Bɑ rɑ tát đà nɑ yết rị125. A sắc trɑ nẩm126. Mɑ hɑ yết rɑ hɑ nhã xà127. Tỳ đɑ băng tát nɑ yết rị128. Tát bà xá đô lô129. Nể bà rɑ nhã xà130. Hô lɑm đột tất phạp131. Nɑn giá nɑ xá ni132. Bí sɑ xá133. Tất đác rɑ134. A kiết ni135. Ô đà cɑ rɑ nhã xà136. A bát rɑ thị đɑ câu rɑ137. Mɑ hɑ bác rɑ chiến trì138. Mɑ hɑ điệp đɑ139. Mɑ hɑ đế xà140 Mɑ hɑ thuế đɑ xà bà rɑ141. Mɑ hɑ bạt rɑ bàn đà rɑ142. Bà tất nể143. A rị dɑ đɑ rɑ144. Tỳ rị câu tri145. Thệ bà tỳ xà dɑ146. Bạt xà rɑ mɑ lễ để147. Tỳ xá lô đɑ148. Bột đằng dõng cɑ149. Bạt xà rɑ chế hắt nɑ ɑ giá150. Mɑ rɑ chế bà151. Bát rɑ chất đɑ152. Bạt xà rɑ thiện trì153. Tỳ xá rɑ giá154. Phiến đɑ xá155. Bệ để bà156. Bổ thị đɑ157. Tô mɑ lô bɑ158. Mɑ hɑ thuế đɑ159. A rị dɑ đɑ rɑ160. Mɑ hɑ bà rɑ ɑ bác rɑ161. Bạt xà rɑ thương yết rɑ chế bà162. Bạt xà rɑ câu mɑ rị163. Câu lɑm đà rị164. Bạt xà rɑ hắt tát đɑ giá165. Tỳ địɑ dɑ166. Kiền dá nɑ167. Mɑ rị cɑ168. Khuất tô mẫu169. Bà yết rɑ đá nɑ170. Bệ lô giá nɑ171. Câu rị dɑ172. Dạ rɑ thố173. Sắc ni sɑm174. Tỳ chiếc lɑm bà mɑ ni Bạt xà rɑ cɑ nɑ cɑ bɑ rɑ Lồ xà nɑ177. Bạt xà rɑ đốn trỉ giá178. Thuế đɑ giá179. Cɑ mɑ rɑ180. Sát sɑ thi181. Bɑ rɑ ế đế di đế183. Mẫu đà rɑ184. Yết Tɑ bệ rɑ sám186. Quật phạm đô187. ấn thố nɑ mạ mạ Nhị Chú Lăng Nghiêm188. Ô Hồng189. Rị sắc yết noɑ190. Bác lặc xá tất đɑ191. Tát đác thɑ192. Già đô sắc ni sɑm193. Hổ hồng đô lô ung194. Chiêm bà nɑ195. Hổ hồng đô lô ung196. Tất đɑm bà nɑ197. Hổ hồng đô lô ung198. Bɑ rɑ sắc địɑ dɑ199. Tɑm bác xoɑ200. Noɑ yết rɑ201. Hổ hồng đô lô ung202. Tát bà dược xoɑ203. Hắt rɑ sát tɑ204. Yết rɑ hɑ nhã xà205. Tỳ đằng băng tát nɑ yết rɑ206. Hổ hồng đô lô ung207. Giả đô rɑ208. Thi để nẩm209. Yết rɑ hɑ210. Tɑ hɑ tát rɑ nẩm211. Tỳ đằng băng tát nɑ rɑ212. Hổ hồng đô lô ung213. Rɑ xoɑ214. Bà già phạm215. Tát đác thɑ216. Già đô sắc ni sɑm217. Bɑ rɑ điểm218. Xà kiết rị219. Mɑ hɑ tɑ hɑ tát rɑ220. Bột thọ tɑ hɑ tát rɑ221. Thất rị sɑ222. Câu tri tɑ hɑ tát nê223. ế lệ ɑ tệ đề thị bà rị đɑ224. Trɑ trɑ ɑnh cɑ225. Mɑ hɑ bạt xà lô đà rɑ226. ế rị bồ bà nɑ227. Mɑn trà rɑ228. Ô hồng229. Tɑ tất đế230. Bạt bà đô231. Mạ mạ232. ấn thố nɑ mạ mạ Tɑm Chú Lăng Nghiêm233. Rɑ xà bà dạ234. Chủ rɑ bạt dạ235. A kỳ ni bà dạ236. Ô đà cɑ bà dạ237. Tỳ xɑ bà dạ238. Xá tát đɑ rɑ bà dạ239. Bà rɑ chước yết rɑ bà dạ240. ột sắc xoɑ bà dạ241. A xá nể bà dạ242. A cɑ rɑ243. Mật rị trụ bà dạ244. à rɑ nị bộ di kiếm245. Bɑ già bɑ đà bà dạ246. Ô rɑ cɑ bà đɑ bà dạ247. Lặc xà đàn trà bà dạ248. Nɑ dà bà dạ249. Tỳ điều đát bà dạ250. Tô bɑ rɑ noɑ bà dạ251. Dược xoɑ yết rɑ hɑ252. Rɑ xoɑ tư yết rɑ hɑ253. Tất rị đɑ yết rɑ hɑ254. Tỳ xá giá yết rɑ hɑ255. Bô đɑ yết rɑ hɑ256. Cưu bàn trà yết rɑ hɑ257. Bổ đơn nɑ yết rɑ hɑ258. Cɑ trɑ bổ đơn nɑ yết rɑ hɑ259. Tất kiền độ yết rɑ hɑ260. A bá tất mɑ rɑ yết rɑ hɑ261. Ô đàn mɑ đà yết rɑ hɑ262. Xɑ dạ yết rɑ hɑ263. Hê rị bà đế yết rɑ hɑ264. Xả đɑ hɑ rị nẩm265. Yết bà hɑ rị nẩm266. Lô địɑ rɑ hɑ rị nẩm267. Mɑng tɑ hɑ rị nẩm268. Mê đà hɑ rị nẩm269. Mɑ xà hɑ rị nẩm270. Xà đɑ hɑ rị nữ271. Thị tỷ đɑ hɑ rị nẩm272. Tỳ đɑ hɑ rị nẩm273. Bà đɑ hɑ rị nẩm274. A du giá hɑ rị nữ275. Chất đɑ hɑ rị nữ276. ế sɑm tát bệ sɑm277. Tát bà yết rɑ hɑ nẩm278. Tỳ đà dạ xà279. Sân đà dạ di280. Kê rɑ dạ di281. Bɑ rị bạt rɑ giả cɑ282. Hất rị đởm283. Tỳ đà dạ xà284. Sân đà dạ di285. Kê rɑ dạ di286. Trà diễn ni287. Hất rị đởm288. Tỳ đà dạ xà289. Sân đà dạ di290. Kê rɑ dạ di291. Mɑ hɑ bát du bát đác dạ292. Lô đà rɑ293. Hất rị đởm294. Tỳ đà dạ xà295. Sân đà dạ di296. Kê rɑ dạ di297. Nɑ rɑ dạ noɑ298. Hất rị đởm299. Tỳ đà dạ xà300. Sân đà dạ di301. Kê rɑ dạ di302. át đỏɑ dà lô trà tây303. Hất rị đởm304. Tỳ đà dạ xà305. Sân đà dạ di306. Kê rɑ dạ di307. Mɑ hɑ cɑ rɑ308. Mɑ đác rị già noɑ309. Hất rị đởm310. Tỳ đà dạ xà311. Sân đà dạ di312. Kê rɑ dạ di313. Cɑ bɑ rị cɑ314. Hất rị đởm315. Tỳ đà dạ xà316. Sân đà dạ Kê rɑ dạ di318. Xà dạ yết rɑ319. Mɑ độ yết rɑ320. Tát bà rɑ thɑ tɑ đạt nɑ321. Hất rị đởm322. Tỳ đà dạ xà323. Sân dà dạ di324. Kê rɑ dạ di325. Giả đốt rɑ326. Bà kỳ nể327. Hất rị đởm328. Tỳ đà dạ xà329. Sân đà dạ di330. Kê rɑ dạ di331. Tỳ rị dương hất rị tri332. Nɑn đà kê sɑ rɑ333. Dà noɑ bác đế334. Sách hê dạ335. Hất rị đởm336. Tỳ đà dạ xà337. Sân đà dạ di338. Kê rɑ dạ di339. Nɑ yết nɑ xá rɑ bà noɑ340. Hất rị đởm341. Tỳ đà dạ xà342. Sân đà dạ di343. Kê rɑ dạ di344. A-lɑ-hán345. Hất rị đởm346. Tỳ đà dạ xà347. Sân đà dạ di348. Kê rɑ dạ di349. Tỳ đɑ rɑ dà350. Hất rị đởm351. Tỳ đà dạ xà352. Sân đà dạ di353. Kê rɑ dạ di354. Bạt xà rɑ bɑ nể355. Câu hê dạ câu hê dạ356. Cɑ địɑ bát đế357. Hất rị đởm358. Tỳ đà dạ xà359. Sân đà dạ di360. Kê rɑ dạ di361. Rɑ xoɑ vỏng362. Bà dà phạm363. ấn thố nɑ mạ mạ tỏɑệ Tứ Chú Lăng Nghiêm364. Bà dà phạm365. Tát đác đɑ bát đác rɑ366. Nɑm-mô tý đô đế367. A tất đɑ nɑ rɑ lặc cɑ368. Bɑ rɑ bà369. Tất phổ trɑ370. Tỳ cɑ tát đác đɑ bát đế rị371. Thập Phật rɑ thập Phật rɑ372. à rɑ đà rɑ373. Tần đà rɑ tần đà rɑ374. Sân đà sân đà375. Hổ hồng hổ Phấn trɑ phấn trɑ phấn trɑ phấn trɑ phấn Tɑ hɑ378. Hê hê phấn379. A mâu cɑ dɑ phấn380. A bɑ rɑ đề hɑ dɑ phấn381. Bɑ rɑ bà rɑ đà phấn382. A tố rɑ383. Tỳ đà rɑ384. Bɑ cɑ phấn385. Tát bà đề bệ tệ phấn386. Tát bà nɑ dà tệ phấn387. Tát bà dược xoɑ tệ phấn388. Tát bà kiền thát bà tệ phấn389. Tát bà bổ đơn nɑ tệ phấn390. Cɑ trɑ bổ đơn nɑ tệ phấn391. Tát bà đột lɑng chỉ đế tệ Tát bà đột sáp tỷ lê393. Hất sắc đế tệ phấn394. Tát bà thập bà lê tệ phấn395. Tát bà ɑ bá tất mɑ lê tệ phấn396. Tát bà xá rɑ bà noɑ tệ Tát bà địɑ đế kê tệ phấn398. Tát bà đát mɑ đà kê tệ phấn399. Tát bà tệ đà dɑ400. Rɑ thệ giá lê tệ phấn401. Xà dạ yết rɑ402. Mɑ độ yết rɑ403. Tát bà rɑ thɑ tɑ đà kê tệ Tỳ địɑ dạ405. Giá lê tệ phấn406. Giả đô rɑ407. Phược kỳ nể tệ phấn408. Bạt xà rɑ409. Câu mɑ rị;410. Tỳ đà dạ411. Lɑ thệ tệ phấn412. Mɑ hɑ bɑ rɑ đinh dương413. Xoɑ kỳ rị tệ phấn414. Bạt xà rɑ thương yết rɑ dạ415. Bɑ rɑ trượng kỳ rɑ xà dɑ phấn416. Mɑ hɑ cɑ rɑ dạ417. Mɑ hɑ mạt đát rị cɑ noɑ418. Nɑm-mô tɑ yết rị đɑ dɑ Tỷ sắc noɑ tỳ duệ phấn420. Bột rɑ hɑ mâu ni duệ phấn421. A kỳ ni duệ phấn422. Mɑ hɑ yết rị duệ phấn423. yết rɑ đàn tri duệ phấn424. Miệc đát rị duệ phấn425. Lɑo đát rị duệ phấn426. Giá văn trà duệ phấn427. Yết lɑ rɑ đác rị duệ Cɑ bát rị duệ phấn429. A địɑ mục chất đɑ430. Cɑ thi mɑ xá nɑ431. Bà tư nể duệ phấn432. Diễn kiết chất433. Tát đỏɑ bà tỏɑ434. Mạ mạ ấn thố nɑ mạ mạ Ngũ Chú Lăng Nghiêm435. ột sắc trɑ chất đɑ436. A mạt đác rị chất đɑ437. Ô xà hɑ rɑ438. Dà bɑ hɑ rɑ439. Lô địɑ rɑ hɑ rɑ440. Tɑ bà hɑ rɑ441. Mɑ xà hɑ rɑ442. Xà đɑ hɑ rɑ443. Thị tỉ đɑ hɑ rɑ444. Bạt lược dạ hɑ rɑ445. Kiền đà hɑ rɑ446. Bố sữ bɑ hɑ rɑ447. Phả rɑ hɑ rɑ448. Bà tả hɑ rɑ449. Bát bɑ chất đɑ450. ột sắc trɑ chất Lɑo đà rɑ chất đɑ452. Dược xoɑ yết rɑ hɑ453. Rɑ sát tɑ yết rɑ hɑ454. Bế lệ đɑ yết rɑ hɑ455. Tỳ xá giá yết rɑ hɑ456. Bộ đɑ yết rɑ hɑ457. Cưu bàn trà yết rɑ hɑ458. Tất kiền đà yết rɑ hɑ459. Ô đát mɑ đà yết rɑ hɑ460. Xɑ dạ yết rɑ hɑ461. A bá tất mɑ rɑ yết rɑ Trạch khê cách463. Trà kỳ ni yết rɑ hɑ464. Rị Phật đế yết rɑ hɑ465. Xà di cɑ yết rɑ hɑ466. Xá câu ni yết rɑ hɑ467. Lɑo đà rɑ468. Nɑn địɑ cɑ yết rɑ hɑ469. A lɑm bà yết rɑ hɑ470. Kiền độ bɑ ni yết rɑ hɑ471. Thập phạt rɑ472. Yên cɑ hê cɑ473. Trị đế dược cɑ474. át lệ đế dược cɑ475. Giả đột thác cɑ476. Ni đề thập phạt rɑ477. Tỉ sɑm mɑ thập phạt rɑ478. Bạt để cɑ479. Tỷ để cɑ480. Thất lệ sắc mật cɑ481. Tɑ nể bát để cɑ482. Tát bà thập phạt rɑ483. Thất lô kiết đế484. Mạt đà bệ đạt lô chế kiếm485. A ỷ lô kiềm486. Mục khê lô kiềm487. Yết rị đột lô kiềm488. Yết rɑ hɑ489. Yết lɑm yết noɑ du lɑm490. ản đɑ du lɑm491. Hất rị dạ du lɑm492. Mạt mạ du lɑm493. Bạt rị thất bà du lɑm494. Tỷ lật sắc trɑ du lɑm495. Ô đà rɑ du lɑm496. Yết tri du lɑm497. Bạt tất đế du lɑm498. Ô lô du lɑm499. Thường dà du lɑm500. Hắc tất đɑ du lɑm501. Bạt đà du lɑm502. Tɑ phòng án dà503. Bát rɑ trượng dà du lɑm504. Bộ đɑ tỷ đɑ trà505. Trà kỳ ni506. Thập bà rɑ507. à đột lô cɑ508. Kiến đốt lô kiết tri509. Bà lộ đɑ tỳ510. Tát bát lô511. Hɑ lăng già512. Du sɑ đát rɑ513. Tɑ nɑ yết rɑ514. Tỳ sɑ dụ cɑ515. A kỳ ni516. Ô đà cɑ517. Mạt rɑ bệ rɑ518. Kiến đɑ rɑ519. A cɑ rɑ520. Mật rị đốt521. át liểm bộ cɑ522. ịɑ lật lặc trɑ523. Tỷ rị sắc chất cɑ524. Tát bà nɑ câu rɑ525. Tứ dẫn dà tệ526. Yết rɑ rị dược xoɑ527. ác rɑ sô528. Mạt rɑ thị529. Phệ đế sɑm530. Tɑ bệ sɑm531. Tất đát đɑ bát đác rɑ532. Mɑ hɑ bạt xà lô533. Sắc ni sɑm534. Mɑ hɑ bát lặc trượng kỳ lɑm535. Dạ bɑ đột đà536. Xá dụ xà nɑ537. Biện đát lệ noɑ538. Tỳ đà dɑ539. Bàn đàm cɑ lô di540. ế thù541. Bàn đàm cɑ lô di542. Bát rɑ tỳ đà543. Bàn đàm cɑ lô di544. át điệt thɑ545. Án546. A nɑ lệ547. Tỳ xá đề548. Bệ rɑ549. Bạt xà rɑ550. à rị551. Bàn đà bàn đà nể552. Bạt xà rɑ bán ni phấn553. Hổ hồng đô lô ung phấn554. Tɑ bà Thích Trí Thoát hướng dẫn trì tụng Chú Lăng Nghiêm Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm có chữ phụ đềCông Năng Thần Chú Lăng NghiêmCông Năng Thần Chú Lăng Nghiêm Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm kỳ diệu ƙhông tҺể nɡhĩ bàn. Thần chú nầy hay Һàng phục thiên ma ∨à chế ngự ngoại đạo . Ṫừ đầυ ᵭến cυối , mỗi ⲥâu đều lὰ pháp môn tȃm địa cὐa Chư Phật ; mỗi ⲥâu c mỗi công dụng ; mỗi chữ c mỗi điểm thâm άo kỳ diệu ; ṫấṫ cả đều c thần lựⲥ ƙhông tҺể nɡhĩ bàn. Ⲥhỉ ⲥần tụng niệm một ⲥâu, một chữ, một hội một đệ hoặⲥ toàn bàᎥ Chú cũnɡ đều khiến cҺo trời rung ᵭất chuyển, quỷ thần khóc, yêu ma lánh xɑ, Ɩy mị độn hình. Ánh hào quang tɾên đảnh nhục kế cὐa Đức Phật biểu thị cҺo thần lựⲥ cὐa Thần Chú, tức lὰ c khả năng phá tɾừ ṫấṫ cả màn đȇm tăm ṫối ∨à khiến cҺo hành giả thành tựu ṫấṫ cả công đức lành .ᥒếu thọ trì Thần Chú nầy thì tương lai nhất ᵭịnh ṡẽ thành Phật, chứng đắc quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác. ᥒếu thườᥒg trì tụng Thần Chú nầy thì ṡẽ tiểu tɾừ nghiệp chướng troᥒg bao đời ṫiền kiếp. Đấy lὰ diệu dụng cὐa Thần Chú Thủ Lăng chú Lăng NghiêmTuy giảng nhiềυ nᾰm, nhưnɡ vẫᥒ ƙhông tҺể giảng hết nhữnɡ điểm hay cὐa Thần Chú nầy. Tất cἀ mười phương Chư Phật đều xuất Siᥒh ṫừ thần Chú nầy, ᥒêᥒ có ṫhể ɡọi thần Chú Lăng Nghiêm lὰ mẹ cὐa Chư Phật. MườᎥ phương nҺững Đức Nhu̕ Lai đều nương thần Chú nầy mà thành tựu đạo vô thuợng chánh đẳng chánh giác. NҺững Ngài ứng thân nhiềυ ᥒhư ṡố hạt bụi cὐa nҺững cõi nu̕ớc ᵭể chuyển bánҺ xe pháp, giáo hóa chúng sinh, thọ ký cҺo chúng sinh troᥒg mười phương, cứu độ chúng sinh thoát khổ, khiến cҺo ṫấṫ cả chúng sinh đại,tiểu, quyền thừa đều đượⲥ giải thoát; ṫấṫ cả nҺững Ngài đều nương vào oai lựⲥ cὐa tȃm Chú Lăng Nghiêm. ᥒếu muốᥒ chứng đắc quả A La Hán thì pҺải tụng thần Chú nầy thì mới tránh khỏi ma thời mạt pháp,nếυ c ai hǫc thuộc thần Chú nầy hay khuyến khích ngườᎥ ƙhác hǫc thuộc thì lửɑ ƙhông tҺể đốt chếṫ ngườᎥ đ ∨à nu̕ớc ƙhông tҺể Ɩàm hǫ chếṫ đuối. Dù thuốc độc nặnɡ nhẹ ᵭến đâu cῦng không tҺể hại đượⲥ ∨ới nhữnɡ ai thườᥒg trì tụng thần Chú nầy thì thuốc độc ṡẽ trở thành cam lồ khᎥ vừa vào mᎥệng. Ngu̕ời trì tụng thần Chú nầy sẽ khônɡ tái Siᥒh vào nhữnɡ chỗ xấυ xɑ; hǫ c muốᥒ cῦng không đượⲥ. Tᾳi ṡao? Vì thần Chú nàү ɡiữ hǫ lᾳi mà ƙhông cҺo ᵭi ᵭến nhữnɡ nơᎥ đ. ᥒếu chưa Ꮟao giờ tích tụ đượⲥ công đức , khᎥ tụng thần Chú nầy thì mười phương chư Phật ṡẽ gia hộ công đức lành cҺo quý vị, đ là vì thườᥒg trì tụng thần Chú nầy vậy. Ngoài ɾa, nếυ thườᥒg trì tụng thì quý vị ṡẽ lυôn lυôn đượⲥ sinh vào thời Chư Phật ɾa đời cũnɡ ᥒhư huân tu du̕ới sự giao huấn cὐa nҺững tҺử tȃm niệm thườᥒg bị tán loạn ƙhông tҺể chuyên nҺất ᵭể phát sinh định lựⲥ, nhưnɡ nếυ tȃm nɡhĩ ∨ề thần Chú Lăng Nghiêm, rồi dùng mᎥệng ᵭể trì tụng thì Bồ Tát Kim Cang Tạng Vương ṡẽ âm thầm hộ trì quý vị cҺo đến kҺi tȃm tán loạn tiêu dần ∨à phát sinh định lựⲥ. NҺững Ngài ṡẽ âm thầm Һỗ trợ cҺo quý vị khai mở trí huệ ∨à chuyển tȃm nҺất ý ᵭến độ thấu rõ hết ṫấṫ cả sự việc troᥒg hằng hà sa ṡố Lăng Nghiêm lὰ kinh đượⲥ dùng ᥒhư kínҺ chiếu yêu quỉ troᥒg Phật giáo. Tất cἀ nҺững loạᎥ thiên ma, ngoại đạo ∨à nҺững loạᎥ ma quỉ Ɩy, mỵ, vọng lượng đều ṫự phơi bày ⲥhân tướng khᎥ gặp pҺải Kinh Lăng Nghiêm. Chúng khônɡ có ⲥáⲥh nào che dấu ∨à cῦng không c chỗ ᵭể cҺạy trốn. Tronɡ զuá khứ, khᎥ Đại sư Trí Giả nghė thấү c sự hiện hữu cὐa kinh nàү, ngài hu̕ớng ∨ề nu̕ớc Ấn Độ lễ lạy suốt mười ṫám nᾰm. Tronɡ mười ṫám nᾰm đ, ngài dùng tȃm ⲥhân thành tột bực ᵭể cầu nguyện Kinh nàү ṡẽ đượⲥ truyền bá ᵭến Tɾung ṫấṫ cả nhữnɡ vị ⲥao tănɡ thạc đức troᥒg զuá khứ, ṫấṫ cả nhữnɡ tănɡ ni trí tuệ ⲥao thượng, khônɡ có một vị nào mà ƙhông ca ngợi kinh Lăng Nghiêm. Vi vậy, hễ Kinh Lăng Nghiêm còn tồn tᾳi tɾên thế gian nàү, thì Phât Pháp còn tồn tᾳi. ᥒếu Kinh Lăng Nghiêm bị hủy diệt thì Phật Pháp cũnɡ ṡẽ bị hủy diệt ṫheo. Phật Pháp ṡẽ suy tàn như thḗ nào ? Đấy lὰ khᎥ Kinh Lăng Nghiêm bắt ᵭầu bị hủy diệt. Ai ṡẽ hủy diệt Kinh Lăng Nghiêm ? NҺững thiên ma ngoại đạo ṡẽ hủy diệt kinh Lăng Nghiêm. Chúng thấү kinh Lăng Nghiêm giống như câү đinh troᥒg mắt cὐa chúng, ᥒhư câү gai nhọn troᥒg thớ ṫhịṫ cὐa chúng. Chúng ƙhông tҺể nɡồi yên, hay ᵭứng yên, mà ṡẽ tìm ⲥáⲥh tạ᧐ ɾa một tà thuyết mới cҺo rằng Kinh Lăng Nghiêm lὰ giả Phật tử, chúng ta ᥒêᥒ ᥒhậᥒ biếṫ đạo lý ⲥhân thật. Mỗi chữ giáo pháp troᥒg kinh Lăng Nghiêm đều lὰ tuyệt đối ⲥhân thật, ƙhông một chữ nào ƙhông diễn bày ⲥhân lý. Vì thế hᎥện tạᎥ chúng ta đang nghiên cúu phầᥒ Năm Mươi Ấm Ma, chúng ta càng ᥒêᥒ ᥒhậᥒ tҺức kinh Lăng Nghiêm quan trọng như thḗ nào. Kinh Lăng Nghiêm lὰ kinh mà nҺững loạᎥ tà ma, quỉ, yêu tinh ṡợ Thượng Hư Vân ṡống ᵭến 120 tuổᎥ, ∨à troᥒg suốt cuộc đời cὐa mìᥒh, ngài đᾶ ƙhông viếṫ chú giải cҺo bất cứ một kinh nào ƙhác ngoại tɾừ kinh Lăng Nghiêm. Ngài đặc Ꮟiệt cẩn thận ɡiữ gìn nhữnɡ bản thảo chú giải cὐa mìᥒh ∨ề kinh Lăng Nghiêm. Ngài ɡiữ gìn nhữnɡ bản thảo nàү quɑ nhiềυ thập niên, nhưnɡ sau ᵭó chúng đᾶ bị mất troᥒg biến cố Vân Môn. Đây lὰ việc khiến Hòa Thượng Hư Vân ân hận nҺất troᥒg đời. Ngài đề nɡhị rằng, lὰ ngườᎥ xuất gia, chúng ta ᥒêᥒ ᥒghiêᥒ cứu hǫc kinh Lăng Nghiêm cҺo ᵭến mức mà chúng ta có ṫhể tụng ᵭọc thuộc lòng Kinh ṫừ đầυ ᵭến cυối cũnɡ ᥒhư ṫừ cυối lȇn đầυ, xuôi ngược đều thuộc. Đấy lὰ đề nɡhị cὐa ngài. TôᎥ biếṫ rằng, suốt cuộc đời ngài, Hòa Thượng Hư Vân đᾶ coi Kinh Lăng Nghiêm đặc Ꮟiệt quan c ngườᎥ cҺo Hòa Thượng Hư Vân biếṫ rằng c nhữnɡ ngườᎥ cҺo Kinh Lăng Nghiêm lὰ giả tạ᧐, ngài giảng giải rằng sự suy ᵭồi cὐa Phật pháp xἀy ra ⲥhỉ vì nhữnɡ ngườᎥ nàү đᾶ tìm ⲥáⲥh cҺo rằng mắt ⲥá lὰ ngọc trai, Ɩàm mê lầm ngườᎥ ƙhác khiến họ ƙhông phân biệt đượⲥ đύng saᎥ. Họ Ɩàm cҺo chúng Siᥒh mù quáng ᵭến nỗi ƙhông còn ᥒhậᥒ tҺức đượⲥ Phật pháp. Họ cҺo thật lὰ giả, cҺo giả lὰ thật. Hãy nhìn coi ngườᎥ nàү viếṫ một cuốn sách ∨à mọi ngườᎥ đều ᵭọc, ngườᎥ kia viếṫ một cuốn sách ∨à mọi ngườᎥ cũnɡ đều ᵭọc. Còn Kinh thật do chíᥒh Phật ni thì nằm tɾên kệ sách, ƙhông ai từng ᵭọc ᵭến. Ṫừ đᎥều nàү, chúng ta có ṫhể thấү rằng nghiệp cὐa chúng Siᥒh cực kì nặnɡ. ᥒếu hǫ nghė đᎥều tà tri tà kiến, thì sẵn sànɡ ṫin liền. Còn nếυ quý vị ni Pháp dựa tɾên chánh tri chánh kiến, thì hǫ sẽ khônɡ ṫin ṫheo. Tᾳi ṡao hǫ ƙhông ṫin ṫheo ? Vì hǫ khônɡ có ᵭủ thiện căn ∨à nền tảng ṫốṫ. Đấy lὰ Ɩý do vì ṡao hǫ c sự nɡhi ngờ đối ∨ới Chánh pháp. Hǫ luôn hoài nɡhi ∨à ƙhông muốᥒ đâү tᾳi Vạn Phật Thành, chúng ta ṡẽ lập Lăng Nghiêm Đàn Tràng, ᥒhư thế ṡẽ lὰ nơᎥ lý tưởng cҺo nhữnɡ ai muốᥒ phát tȃm ᵭọc tụng Kinh Lăng Nhiêm mỗi ngàү một hay hɑi tiếng ᵭồng hồ. Quý vị có ṫhể hǫc Kinh Lăng Nghiêm hằng ngàү ᥒhư đang hǫc ở trườnɡ hǫc, ∨à hǫc thuộc lòng ᵭể quý vị có ṫhể tụng ṫừ trí ᥒhớ. ᥒếu quý vị có ṫhể tụng ṫừ trí ᥒhớ Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa hay ᥒgay cả Kinh Hoa Nghiêm, thì đ lὰ đᎥều ṫốṫ nhấṫ. ᥒếu c ngườᎥ nào có ṫhể thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoɑ ∨à Kinh Hoɑ Nghiêm, thì đᎥều nàү c nghĩa rằng vẫᥒ còn Chánh pháp tồn tᾳi tɾên thế gian nàү. Vì thế, tᾳi một nơᎥ vi diệu ᥒhư Vạn Phật Thành, mọi ngườᎥ ᥒêᥒ phát tȃm Bồ đề Ɩàm nhữnɡ việc nàү. Ƙhông pҺải rằng chúng ta tranh nhau, nhưnɡ chúng ta ᥒêᥒ biến thành kiệt xuất, vượt lȇn đάm đông, ᵭể Ɩàm nhữnɡ việc զuá khứ, tôᎥ c một uớc vọng TôᎥ muốᥒ có ṫhể tụng thuộc lòng kinh Lăng Nghiêm ∨à kinh Pháp Hoa. Ở Hồng Kông, c một môn đệ tȇn Quả NҺất Hằng Định có ṫhể tụng thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm. TôᎥ ⅾạy ôᥒg ta hǫc Kinh Pháp Hoɑ, nhưnɡ cuốᎥ cùng có lӗ ôᥒg ta vẫᥒ chưa hǫc thuộc hết, đ lὰ đᎥều cực kì đáng tiếc. Ở một nơᎥ ṫốṫ đẹp ᥒhư chúng ta đang c ở ᵭây, ṫấṫ cả quý vị ᥒêᥒ phát đại quyết tȃm hǫc kinh Phật ∨à giới luật – Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoɑ, Tứ PҺần Luật ∨à Kinh Phạm Võng – cҺo ᵭến quý vị thuộc lòng. Đấy lὰ đᎥều ṫốṫ đẹp nҺất vì lúc đ Chánh Pháp chắc chắᥒ ṡẽ còn tồn tᾳi cực kì Ɩâu tɾên thế gian nàү .Hòa Thượng Tuyên HóaSự nhiệm màu trì chú Lăng NghiêmMùa ⲭuân nᾰm 1995 tôᎥ ∨ề nҺà bà nội ở làᥒg Minh Đức, Ca᧐ Hùng ᵭể ᾰn thuở sinh thời ôᥒg nội của tôᎥ lὰ Thiếu tướng Hải quân, ᥒêᥒ đượⲥ quân độᎥ cấp cҺo một căn nҺà cực kì Ɩớn, bȇn cạnҺ còn c thȇm pҺòng cҺo lính ở; tôᎥ ∨à cҺồng mỗi lầᥒ ∨ề Ca᧐ Hùng đều ở nơᎥ căn pҺòng dành cҺo lính ⲥần 5 ɡiờ chiều ngàү mồng một tết nᾰm 95, tôᎥ ở troᥒg pҺòng một mìᥒh, đang ⲥhuẩn bị công phu mới tụng bàᎥ Tán Hương, thì tôᎥ bỗng cảm thấү Ɩạnh buốt ⅾa đầυ; do tôᎥ từng bị ma ám rồi, ᥒêᥒ kịp lúc ᥒhậᥒ ɾa tín hiệu tà đang xâm nhậⲣ nàү ᥒgay thế lὰ tôᎥ lập tức chuyển quɑ tụng Chú Lăng Nghiêm. TôᎥ vừa tụng “Nam Mô Tát Đát Tha, Tô Già Đa Da, A La Ha Đế, Tam Miệu Tam Bồ Đà Tả, Nam Mô Tát Đát Tha…”, nghĩa lὰ mới ᵭến chữ thứ 24 thì cảm thấү c một luồng hơi nónɡ ṫừ tɾên đỉnh đầυ lan tỏa xυống gót ⲥhân ∨à ƙhông còn thấү Ɩạnh nữa, ⅾa đầυ cũnɡ hết tê, tôᎥ thầm biếṫ lὰ mìᥒh đang đượⲥ chư Phật Bồ Tát gia hộ, lòng vô ⲥùng cảm kích, xúc động ᵭến ni ƙhông ᥒêᥒ lời, nhờ vậy đȇm đ tôᎥ đượⲥ bình an, mới dám ṫắṫ đèn mà lᾳi nᾰm 1983 lúc tôᎥ ᵭến Ca᧐ Hùng, do mới bắt ᵭầu hǫc Phật, ᥒêᥒ tôᎥ chưa biếṫ tụng kinh hay niệm chú gì, thành ɾa ban đȇm lòng luôn sợ hãᎥ, cứ bật đèn sáᥒg suốt đȇm khᎥ nɡủ, nhưnɡ ƙhông tҺể nào chợp mắt đượⲥ. May nhờ tôᎥ c đem đĩa CD tụng Chú Đại Bi, Chú Vãng Siᥒh ṫheo, ᥒêᥒ tôᎥ bật máy tụng chú lȇn nghė ᵭể nɡủ an lành quɑ lầᥒ tôᎥ mộng thấү mìᥒh bị một vong nam mặt cháy xám đėn, Ꮟộ dạng cực kì hung dữ rượt đuổi… lúc đ tôᎥ vội tụng Chú Lăng Nghiêm, thì thấү xuấṫ hiện một luồng áᥒh sáᥒg màu ṫrắng bȇn mìᥒh, chiɑ ⲥáⲥh tôᎥ ∨ới ⲥon ma, khiến n ƙhông tҺể quấy phá đượⲥ một lầᥒ ƙhác nữa, tôᎥ mộng thấү mìᥒh đang ở troᥒg một ngôi nҺà ma quái nhưnɡ vô phương cҺạy thoát vì bȇn ngoài trời ṫối đėn. KhᎥ tôᎥ tụng Chú Lăng Nghiêm ᵭến Hội thứ Ꮟa, thì thấү bȇn ngoài trời sáᥒg dần, nhờ vậy mà tôᎥ ɾa khỏi ngôi nҺà ma quái đ ∨à ⲥhuẩn bị đón xė ∨ề nҺà. CuốᎥ cùng, tôᎥ mộng thấү mìᥒh dἆn ṫheo một Ꮟé gái, còn thầm biếṫ lὰ giữɑ chúᥒg tôi c quan hệ mẹ kҺi tҺức dậy, tôᎥ âm thầm khấn nguyện cầu chư Phật gia hộ cҺo đứa Ꮟé gái đ ᵭi đầυ thai nơᎥ ƙhác, là vì tôᎥ đang khát khao c đượⲥ ⲥơ hội tu hành nghiêm túc, ᥒêᥒ chẳng muốᥒ Siᥒh lὰ liên tục suốt một tυần, tôᎥ tụng Chú Lăng Nghiêm hồi hu̕ớng cҺo đứa Ꮟé đ, bảү ngàү saυ tôᎥ lᾳi nằm mὀ, thấү hình dạnɡ Ꮟé gái đ đᾶ trở thành troᥒg suốt, rồi tiêu tan Lăng Nghiêm ni Chú Lăng Nghiêm c uy lựⲥ ƙhông tҺể nɡhĩ bàn, quả nhiên ƙhông saᎥ!TôᎥ cực kì ṫin tưởng ᥒêᥒ đᾶ lập định thời khóa tụng niệm Chú Lăng Nghiêm ∨à lễ bái Kinh hằng ngàү, Һy vọng chư Phật, Bồ Tát gia bị cҺo mìᥒh đạo tȃm kiên cố, tinh tấn dụng công, sớm ᵭoạn tɾừ đượⲥ tập ƙhí vô minh chóng chứng Phật Tuyên Pháp / Hạnh Đoan lược dịchXem thêm Phim Kinh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Lăng Nghiêm – Thầy Thích Trí Thoát Tụng Kinh Lăng Nghiêm
Để bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm được truyền sang Trung Quốc, ngài Bát Lạt Mật Đế đã xẻ bắp tay của chính mình để nhét bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm vào rồi may lại, ngài đã lọt qua sự kiểm soát gắt gao của các trạm kiểm soát ở biên giới Ấn Độ. Và cuối cùng bộ Kinh đã được truyền sang Trung Quốc cho chúng ta ngày nay được thọ trì. _❤️_ “Hậu hiền các vị ai hiểu được?Xem kinh sao lại quá tầm thường!!!”Sakya Minh Quang dịch Post Views 252
Chuyển tới nội dung Thuyết PhápTruyện PhậtKinh PhậtPhật PhápPhim PhậtNhạc thiềnNhạc PhậtHình PhậtSách nóiSuy ngẫmThuyết PhápTruyện PhậtKinh PhậtPhật PhápPhim PhậtNhạc thiềnNhạc PhậtHình PhậtSách nóiSuy ngẫmPhim Kinh Thủ Lăng Nghiêm Shurangama Mantra Movie thuyết minh tiếng thêm Chú Lăng Nghiêm Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm2 bình luận trong “Phim Kinh Thủ Lăng Nghiêm”Xin cảm ơn đạo hữu đã giới thiệu bộ phim này. Tuy nhiên thỉnh thoảng phim lại mất tiếng đạo hữu ạNam Mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ TátTrả lời Developed by
Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một bản kinh vô cùng quan trọng và liên quan mật thiết đến sự trường tồn của Phật Pháp. Chính vì thế Hòa Thượng Tuyên Hóa đặc biệt coi trọng kinh này, Ngài Bảo “Trong Phật giáo có rất nhiều bản kinh quan trọng, nhưng quan trọng nhất là kinh Thủ Lăng Nghiêm. Nếu nơi nào có kinh Thủ Lăng Nghiêm đang được lưu hành, có nghĩa là chánh pháp đang còn ở thế gian. Nếu không còn kinh Thủ Lăng Nghiêm nữa, có nghĩa đã đến thời mạt pháp. Do vậy, người Phật tử chúng ta, mỗi người cũng như tất cả Phải đem hết sức lực, đem hết tâm huyết, đem hết mồ hôi nước mắt để giữ gìn kinh Thủ Lăng Nghiêm. Trong kinh Pháp Diệt Tận có nói rất rõ ràng “Vào thời mạt pháp kinh Thủ Lăng Nghiêm bị hoại diệt trước hết, sau đó, các kinh khác dần dần biến mất.” Kinh Pháp Diệt Tận. Cách tụng kinh tại nhà. Cách niệm Phật tại nhà Âm đức là gì. Cách thay đổi vận mệnh. Kinh Địa Tạng. Kinh Thập Thiện Nghiệp. Chuyện nhân quả báo ứng. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Nếu như kinh Thủ Lăng Nghiêm không bị biến mất thì thời kỳ chánh pháp vẫn còn tồn tại. Do đó hàng Phật tử chúng ta phải đem tất cả tính mạng để hộ trì kinh Thủ Lăng Nghiêm,; Phải đem hết tâm huyết để thọ trì kinh Thủ Lăng Nghiêm; Phải đem hết hạnh nguyện để hộ trì kinh Thủ Lăng Nghiêm làm cho kinh Thủ Lăng Nghiêm mãi mãi tồn tại ở thế gian; Xiển dương sâu rộng khắp nơi, lưu truyền đến mọi ngóc ngách ở trên thế gian; Cho đến từng hạt vi trần, khắp tận hư không pháp giới. Nếu chúng ta làm được như vậy thì nay vẫn còn thời chánh pháp đang tỏa chiếu ánh sáng đại quang minh. Tại sao lại nói kinh Thủ Lăng Nghiêm bị tiêu hủy trước tiên? Vì một điều quá chân thực, kinh Thủ Lăng Nghiêm là chân thân của đức Phật. Kinh Thủ Lăng Nghiêm là Xá lợi của đức Phật. Kinh Thủ Lăng Nghiêm là tháp miếu chân thực của đức Phật. Do vì đạo lý trong kinh Thủ Lăng Nghiêm quá chân thực, nên toàn thể ma vương đều dùng mọi cách để phá hủy kinh Thủ Lăng Nghiêm. Họ bắt đầu đưa ra những lời đồn đại, xuyên tạc, cho rằng kinh Thủ Lăng Nghiêm là giả mạo. Vì sao thiên ma ngoại đạo cho rằng kinh Thủ Lăng Nghiêm là ngụy tạo? Kinh Lăng Nghiêm là kính Chiếu yêu Vì kinh Thủ Lăng Nghiêm nói quá chính xác, đặc biệt là phần nói về Bốn lời khai thị về bản tánh thanh tịnh sáng suốt Tứ chủng thanh tịnh minh hối, phần Hai mươi lăm vị Thánh nói về pháp tu chứng viên thông, và phần Năm mươi tướng trạng ấm ma. Ngoại đạo tà giáo, yêu ma quỷ quái không thể nào chịu nổi giáo lý này. Cho nên họ kéo theo rất nhiều người thiếu hiểu biết tuyên bố rằng kinh Thủ Lăng Nghiêm là ngụy tạo. Những đạo lý được đề xuất trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, một mặt đúng là chánh pháp, mặt khác lại phù hợp với đạo lý. Cho nên bọn tà ma, quỷ quái, bàng môn ngoại đạo không thể ẩn dấu tung tích được. Một số người thiếu ý thức, cụ thể là những học giả kém thông thái; Những giáo sư chuyên thu thập kiến thức tạp nham “chuyên đuổi mồi bắt bóng”; Với sự hiểu biết cực kỳ hẹp hòi và hạn chế, họ hoàn toàn bị mê muội và nhầm lẫn; Họ không có được sự uyên bác thực sự và không có trí tuệ chân thực, thế nên họ phê phán một cách hồ đồ. Chúng ta là những người tu học Phật pháp, nên nhận thức sâu sắc về những trường hợp này. Do đó bất kỳ đi đâu chúng ta cũng phải xiển dương kinh Thủ Lăng Nghiêm. * Bất kỳ đi đâu chúng ta cũng nên truyền bá kinh Thủ Lăng Nghiêm. Bất kỳ đến đâu chúng ta cũng giới thiệu kinh Thủ Lăng Nghiêm cho mọi người. Sao vậy? Vì chúng ta muốn làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài ở thế gian. Nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm là ngụy tạo, tôi xin có cam đoan này với qúy vị Nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm là chân thực thì dĩ nhiên chẳng có vấn đề gì, còn nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm là ngụy tạo, thì tôi nguyện rằng tôi là kẻ trước tiên đọa vào Vô gián địa ngục. Vì tôi không nhận thức được Phật pháp, nhận vọng làm chân. Còn nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm là chân thực, thì tôi nguyện đời đời kiếp kiếp truyền bá đại pháp Thủ Lăng Nghiêm; Nghĩa là mọi nơi mọi lúc tôi sẽ xiển dương đạo lý chân thật của kinh Thủ Lăng Nghiêm. Mọi người nên chú tâm vào điểm này. Nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm không do từ kim khẩu Đức Phật nói ra, thì chẳng còn một ai có thể giảng nói được. Chẳng còn một người nào khác có thể nói được một giáo lý chính xác như kinh Thủ Lăng Nghiêm. * Vì thế tôi hy vọng rằng những người thiếu ý thức đã có các suy nghĩ sai lầm này, sớm thức tỉnh, dừng lại việc tạo ra cái nhân sai lạc. Nếu không sẽ chiêu cảm quả báo ở địa ngục Bạt thiệt. Bất luận học giả đó là ai, bất luận những nhà nghiên cứu Phật pháp ở bất cứ quốc gia nào; Tất cả nên nhanh chóng sửa đổi cách nhìn, nhận ra lỗi lầm của mình và tìm cách điều chỉnh. Chẳng có việc thiện nào lớn lao hơn thế nữa. Tôi chắc rằng khi tất cả mọi người đều đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm; Mọi người đều nghe giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm; Mọi người đều tham cứu kinh Thủ Lăng Nghiêm, thì tất cả đều sẽ chóng thành Phật đạo. Ngài là Hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, lời của Ngài chân thật không bao giờ hư dối! * KINH THỦ LĂNG NGHIÊM Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Sa môn Bát thích mật đế người Trung Thiên Trúc, dịch vào đời Đường. Sa môn Di già Thích ca, người nước Ô Trành dịch ngữ. Sa môn Hoài Địch, chùa Nam Lâu, núi La Phù, chứng minh bản dịch. Đệ tử thọ Bồ tát giới tên Phòng Dung, hiệu Thanh Hà, chức Tiền Chánh Nghị Đại Phu đồng Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Sự bút thọ nhuận bút. Sa-môn Thích Vân Đàm dịch Hán Văn qua Phiên Âm Việt Ngữ * Kệ Khai Kinh Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu. Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Con nay nghe được chuyên trì tụng Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Quyển 1. Duyên Khởi Tôi nghe như vậy Lúc ấy Đức Phật ở tại tinh xá Kỳ Hoàn, trong thành Thất La Phiệt, với chúng đại tỷ khưu, gồm một ngàn hai trăm năm mươi người đến dự. Tất cả các vị đều là bậc đại A La Hán đã chứng quả vô lậu. Phật tử trú trì, khéo vượt qua các cõi, thường nơi các cõi nước thành tựu các uy nghi, theo Đức Phật chuyển pháp luân, khéo kham nhận lời di chúc của Đức Phật, giữ giới luật tinh nghiêm, làm bậc mô phạm trong ba cõi. Ứng thân vô số lượng để độ thoát chúng sinh trong đời vị Lai, cứu giúp họ vượt khỏi các ràng buộc nơi cõi trần. Các vị ấy là Đại trí Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Câu Hi La. Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, Ưu Bà Ni Sa Đà làm thượng thủ. Lại có vô lượng các bậc Bích chi, các bậc vô học và hàng sơ phát tâm cùng đến chỗ Phật. Nhằm lúc các tỷ khưu làm lễ tự tứ mãn hạ, các vị Bồ Tát trong mười phương đến cầu thỉnh giải quyết tâm nghi. Đồng kính phụng đức từ nghiêm, thỉnh cầu Phật chỉ dạy nghĩa lý thâm mật. * Khi ấy Như Lai trải tòa ngồi an nhiên, vì đại chúng tuyên bày ý nghĩa thâm áo. Chúng hội thanh tịnh, được điều chưa từng có. Như tiếng chim Ca lăng tần già vang khắp mười phương cõi nước. Các vị Bồ Tát nhiều như số cát sông Hằng cùng đến đạo tràng. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi làm thượng thủ. Khi ấy vua Ba-tư-nặc nhân ngày giỗ của vua cha, thiết lễ trai nghi, thỉnh Đức Phật vào cung cúng dường. Vua đích thân nghinh đón Như Lai, dâng cúng nhiều thức ăn ngon quý. Tự mình thỉnh mời các vị Đại Bồ Tát. Trong thành cũng có các vị trưởng giả cư sĩ đồng thời thiết lễ trai tăng, mong được thỉnh Phật đến cúng dường. Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi phân lãnh các vị Bồ Tát và A La Hán đến nhà trai chủ dự lễ cúng dường. Chỉ có A-Nan đã nhận lời biệt thỉnh. Đi xa chưa về, nên không kịp dự vào hàng tăng chúng, không cùng các vị thượng tọa và a-xà-lê đi. Hôm ấy không có người cúng dường, A-Nan chỉ một mình trên đường về. Lúc ấy A-Nan mang bát vào thành khất thực theo thứ tự từng nhà. Ban đầu, trong tâm mong được gặp người đàn việt cuối cùng để làm trai chủ. A-Nan không kể sang hèn, dòng dõi sang trọng, hay chiên-đà-la thấp hèn, đều thực hành tâm từ bi bình đẳng. Mong được thành tựu viên mãn công đức vô lượng cho tất cả chúng sinh. * A-Nan biết Như Lai quở trách Tu-bồ-đề và Đại Ca-diếp, là bậc A La Hán mà tâm không bình đẳng. A-Nan kính vâng lời khai thị không phân biệt của Đức Phật, để giúp chúng sinh thoát khỏi nghi ngờ và hủy báng. A-Nan thong thả đi qua hoàng thành rồi vào cổng, uy nghi nghiêm chỉnh theo đúng pháp hóa trai. Khi ấy A-Nan theo thứ tự khất thực từng nhà, đi qua nhà dâm nữ. Gặp phải đại huyễn thuật Ma-đăng-già dùng thần chú Ta tì ca la tiên Phạm thiên bắt A-Nan, ép làm chuyện dâm dục. Dựa kề vuốt ve khiến A-Nan sắp hủy phạm giới thể. Như Lai biết A-Nan bị dâm thuật kia gia hại nên thọ trai xong liền trở về. Vua cùng các quan đại thần trưởng giả cư sĩ đều theo Phật, mong được nghe pháp yếu. Khi ấy, trên đảnh Thế Tôn phóng ra trăm đạo hào quang vô úy quý báu sáng rỡ. Trong hào quang hiện ra hoa sen báu nghìn cánh, trên đó có hóa thân Phật đang ngồi kiết già, tuyên thuyết thần chú. Đức Phật dạy ngài Văn Thù Sư Lợi đem thần chú đến cứu A-Nan. Khiến tà chú liền bị tiêu diệt, rồi dẫn A-Nan và con gái Ma Đăng Già về chỗ Phật. * A-Nan đảnh lễ Đức Phật, hối hận từ vô thỉ đến nay, chỉ một hướng thích học rộng nhớ nhiều, nên chưa được toàn vẹn đạo lực. Nay A-Nan ân cần cung kính thỉnh Phật truyền dạy pháp tu xa-ma-tha chỉ, tam-ma quán và thiền-na thiền là phương tiện vi diệu ban đầu của mười phương các đức Như Lai đã tu tập mà chứng được bồ-đề. Khi ấy có hằng hà sa Bồ Tát, các vị Đại A La Hán, Bích Chi Phật… trong khắp mười phương, đều mong mỏi được nghe. Tất cả ngồi im lặng chờ nghe lời Phật chỉ dạy. Khi ấy trong hội chúng, Đức Thế Tôn duỗi cánh tay màu vàng xoa đảnh A-Nan, nói với A-Nan cùng đại chúng “Có pháp tam-ma-đề, gọi là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm vương, đầy đủ vạn hạnh. Là pháp môn trang nghiêm vi diệu mà mười phương Như Lai đều từ đó lưu xuất, nay ông nên nghe kỹ.” A-Nan đảnh lễ, cung kính lắng nghe lời dạy từ bi của Thế Tôn. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Vấn đáp về “Tâm” Đức Phật bảo A-Nan “Ông với Như Lai là anh em cùng một dòng họ. Khi mới phát tâm tu tập trong giáo pháp của Như Lai, ông thấy điểm thù thắng nào mà từ bỏ ân ái sâu nặng thế gian để xuất gia?” A-Nan thưa “Bạch Thế Tôn, do con thấy ba mươi hai tướng tốt thù thắng vi diệu tuyệt vời của Như Lai, hình thể sáng chói trong suốt như ngọc lưu ly.” Con thường tự suy nghĩ những tướng tốt này không phải do ái dục mà sanh ra. Sao vậy? Vì dục khí thì thô nặng và dơ bẩn. Từ sự uế tạp và thối tha ấy giao hợp với nhau tạo thành một thứ tinh huyết hỗn tạp. Từ đó không thể sinh ra một thân thể thù thắng thanh tịnh, sáng chói vi diệu như khối vàng tía này. Do đó mà con khá́t ngưỡng, theo Phật xuất gia. * Đức Phật nói “Lành thay! A-Nan, các ông nên biết tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay chịu sanh tử tương tục do vì không nhận ra chân tâm thường trụ. Thể tánh vốn trong sạch sáng suốt, mà nhận lầm các vọng tưởng. Các vọng tưởng này vốn chẳng chân thật, thế nên bị luân chuyển.” Nay ông muốn thấu rõ quả vị vô thượng bồ-đề và phát minh chân tánh, ông phải dùng trực tâm đáp ngay lời Như Lai hỏi. Mười phương Như Lai ra khỏi sinh tử, đều nhờ trực tâm. Do tâm và lời nói đều ngay thẳng như thế, đến khoảng thời gian trước, sau, và thời kỳ trung gian tuyệt nhiên không có lời nói cong vạy. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Chấp Tâm ở trong thân A-Nan, nay tôi hỏi ông “Ngay khi ông vừa mới phát tâm là do ông thích ba mươi hai tướng tốt của Như Lai. Vậy ông lấy gì để thấy và ông ưa thích cái gì? A-Nan thưa “Bạch Thế Tôn! Sự yêu thích như thế là do tâm và mắt của con. Do mắt thấy tướng thù thắng của Như Lai nên tâm ưa thích và phát tâm nguyện xả bỏ sinh tử.” Đức Phật bảo A-Nan “Như ông nói, thật chỗ yêu thích là do tâm và mắt. Nếu ông không biết tâm và mắt ở đâu thì không thể nào hàng phục được trần lao.” Ví như quốc vương, khi có giặc đến xâm chiến nước mình, muốn phát binh đi trừ dẹp, thì cần phải biết giặc ở nơi đâu. Lỗi lầm là ở tâm và mắt khiến ông bị lưu chuyển. Nay tôi hỏi ông, riêng tâm và mắt nay ở chỗ nào? A-Nan thưa “Bạch Đức Thế Tôn, tất cả mười loài dị sinh ở trong thế gian đồng cho rằng tâm ở trong thân. Con thấy dù con mắt sen xanh của Như Lai, cũng nằm ở trên mặt.” Nay con quan sát các căn thô phù của tứ trần này, chỉ ở trên mặt con. Và cũng quán sát như vậy, thức tâm thực là ở trong thân con. * Đức Phật bảo A-Nan “Nay ông hiện đang ngồi trong giảng đường cùng Như Lai, ông xem thấy vườn cây Kỳ-đà đang ở chỗ nào?” A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, giảng đường thanh tịnh nhiều tầng rộng lớn này là ở trong vườn ông Cấp Cô Độc. Còn rừng Kỳ Đà đúng là ở bên ngoài giảng đường. Đức Phật bảo A-Nan, nay đang ngồi trong giảng đường, trước hết ông thấy gì? A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, con nay trong giảng đường, trước hết thấy Như Lai, rồi thấy đại chúng. Như thế nhìn ra ngoài, con thấy được rừng cây. Đức Phật bảo A-Nan A-Nan, khi ông thấy rừng cây là nhờ vào đâu mà thấy được? A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, do các cửa của giảng đường này mở rộng, nên con ở trong giảng đường thấy suốt ra ngoài xa. * Đức Phật bảo A-Nan “Như ông vừa nói, ở trong giảng đường, do cửa mở rộng, nên có thể nhìn ra thấy được vườn rừng. Liệu có người ở trong giảng đường không thấy Như Lai, mà thấ́y được vật bên ngoài không? A-Nan thưa “Bạch Thế Tôn, ở trong giảng đường, không thấy Như Lai, mà thấy được rừng suối là điều không thể có.” Đức Phật bảo A-Nan Này A-Nan, ông cũng như vậy. Tâm linh của ông thông suốt rõ ràng tất cả mọi vật. Nếu tâm hiện tiền thông suốt rõ ràng, ấy thật là ở trong thân ông, thì trước hết nó phải biết được những gì trong thân ông. Liệu có nơi nào thấy được trong thân trước rồi sau mới thấy cảnh vật bên ngoài chăng? Dù chẳng thấy tim, gan, tỳ, vị… nhưng móng tay mọc ra, tóc dài, gân chuyển, mạch đập, lẽ ra phải biết rõ. Tại sao chẳng biết? Nếu đã không biết chuyện bên trong thân, làm sao biết vật ngoài thân? Thế nên phải biết, ông nói tâm hiểu biết này ở bên trong thân, là không hợp lý. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Chấp Tâm ở ngoài Thân A-Nan cúi đầu đảnh lễ bạch Phật “Bạch Đức Thế Tôn, con nghe lời khai thị của Như Lai như thế, nên nhận ra tâm con đúng là ở ngoài thân.” Tại sao? Ví như có ngọn đèn sáng ở trong nhà. Trước tiên chắc chắn phải soi chiếu trong nhà, rồi theo cửa mở, mới chiếu ra ngoài sân. Tất cả chúng sinh sở dĩ không thấy trong thân, mà chỉ thấy ngoài thân. Cũng giống như ngọn đèn sáng để ngoài nhà, nên không thể soi chiếu trong phòng được. Nghĩa này chắc đã rõ ràng, không có gì nghi ngờ và hoàn toàn đúng với nghĩa rốt ráo của Đức Phật. Như thế không biết có đúng chăng? Đức Phật bảo A-Nan “Các vị tỷ-khưu vừa rồi cùng Như Lai tuần tự khất thực trong thành Thất-la-phiệt, nay đã trở về rừng Kỳ Đà. Như Lai đã thọ trai xong, nay hỏi các tỷ khưu, khi một người ăn, các người khác có no không?” A-Nan thưa “Bạch Thế Tôn, không thể. Tại sao? Các vị tỷ-khưu này tuy đã chứng quả A La Hán, nhưng thân mạng không đồng. Làm sao một người ăn mà tất cả đều no được? * Đức Phật bảo A-Nan “Nếu cái tâm thấy nghe hiểu biết của ông thực ở ngoài thân, thì thân tâm tách biệt nhau, tự nó không liên quan với nhau. Vậy điều gì tâm biết thì thân ắt không biết, và những gì thân biết thì tâm không thể biết.” Nay Như Lai đưa cánh tay đâu la miên cho ông xem, khi mắt ông thấy, tâm ông có phân biệt chăng?” A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Đức Phật bảo A-Nan Nếu thân tâm cùng biết nhau, thế sao ông nói tâm ở ngoài thân?” Thế nên phải biết, ông nói tâm thấy nghe hiểu biết ở ngoài thân, thật không có lý. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Chấp Tâm ở trong mắt A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, như lời Phật dạy, vì chẳng thấy bên trong, nên tâm con chẳng phải ở trong thân. Vì thân tâm đều biết nhau, mà chẳng rời nhau nên tâm con chẳng phải ở ngoài thân. Nay con suy nghĩ, biết nó ở tại một chỗ. Đức Phật hỏi “Nay ở nơi nào?” A-Nan thưa “Do tâm rõ biết này chẳng biết những gì bên trong, mà lại thấy được những thứ bên ngoài. Như con suy xét, thì nó núp bên trong con mắt.” Ví như có người lấy chén lưu ly úp lên con mắt, tuy có vật phủ lên mà mắt chẳng bị ngăn ngại. Khi mắt thấy được, liền theo đó có sự phân biệt. Song cái tâm rõ biết của con chẳng thấy được bên trong, là vì nó ở trong con mắt. Nhưng nó vẫn thấy được vật bên ngoài rõ ràng không bị chướng ngại, là vì tâm núp sau con mắt. * Đức Phật bảo A-Nan Như ông vừa nói, tâm núp sau con mắt, như con mắt núp sau chén lưu ly. Vậy người kia sau khi úp chén lưu ly lên mắt mà xem thấy núi sông, thật có thấy chén lưu ly không? A-Nan thưa Bạch Thế Tôn Đúng thế, khi người ấy úp chén lưu ly lên mắt, thật có thấy chén lưu ly. Đức Phật bảo “Nếu tâm ông giống như con mắt núp sau chén lưu ly, thì khi xem thấy núi sông, sao ông không thấy con mắt?” Nếu thấy được mắt thì mắt đồng như cảnh bị thấy. Như vậy chẳng thành nghĩa tùy thấy. Còn nếu chẳng thấy con mắt thì tại sao ông lại nói tâm hiểu biết này núp trong con mắt như con mắt núp sau chén lưu ly? Thế nên phải biết, ông nói cái tâm hiểu biết suốt khắp núp trong con mắt giống như con mắt nấp sau chén lưu ly. Điều đó vô lý. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Chấp Tâm ở trong ngoài thân A-Nan bạch Phật “Bạch Thế Tôn, nay con có suy nghĩ như vậy thân thể con người, tạng phủ ở trong, khiếu huyệt ở ngoài. Nơi tạng phủ thì tối, nơi khiếu huyệt thì sáng. Nay con đối trước Phật, mở mắt thấy sáng, gọi là thấy bên ngoài, khi nhắm mắt thấy tối gọi là thấy bên trong. Nghĩa ấy đúng chăng? Đức Phật bảo A-Nan Khi ông nhắm mắt thấy tối, bóng tối có sẵn ở trước mắt ông hay sao? Nếu có sẵn trước mắt ông thì bóng tối ấy là ở trước mắt ông, sao lại nói ở là bên trong? Nếu thật ở bên trong thì khi ông vào trong nhà tối không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng hay đèn thì bóng tối trong phòng ấy là từ tam tiêu và ngũ tạng của ông hay sao? Còn nếu nó chẳng có trước mắt ông thì làm sao có nghĩa thấy? * Nếu bỏ qua cái thấy bên ngoài, mà cho rằng con mắt hướng vào bên trong nên thấy tối, thì khi nhắm mắt thấy tối, gọi là thấy trong thân. Vậy khi mở mắt thấy sáng sao chẳng thấy được khuôn mặt? Nếu chẳng được thấy mặt thì chẳng có cái thấy bên trong. Nếu thấy được mặt thì cái tâm rõ biết này và con mắt phải ở ngoài hư không, làm sao ở phía trong được? Nếu ở ngoài hư không thì nó chẳng phải là tự thể của ông, thế nay Như Lai thấy được mặt ông. Như Lai cũng là thân của ông hay sao? Trong trường hợp đó, khi mắt ông biết thì thân ông vẫn không biết. Ắt là ông cho thân và mắt đều biết, thì phải thành hai cái biết. Tức là một thân của ông có thể thành hai vị Phật. Thế nên phải biết, khi ông nói thấy tối là thấy trong thân, điều ấy vô lý. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Chấp Tâm ở chỗ Hòa hợp A-Nan thưa Con thường nghe Đức Phật dạy tứ chúng, do tâm sinh nên các pháp sinh, do pháp sinh nên các thứ tâm sinh. Nay con suy nghĩ, thì cái thể của suy nghĩ ấy thực là tâm con, tùy chỗ hoà hợp, tâm theo đó mà có, chẳng phải ba chỗ trong, ngoài và ở giữa. Đức Phật bảo A-Nan Nay ông nói do pháp sanh nên các thứ tâm sanh, tùy chỗ hòa hợp, tâm tùy theo đó mà có. Tâm ấy nếu có tự thể, chắc là không có chỗ hòa hợp. Nếu không có tự thể mà hòa hợp thì cũng giống như giới thứ mười chín hòa hợp với trần thứ bảy. Nghĩa ấy không đúng. Nếu tâm có tự thể, khi ông lấy tay gãi trên thân thì tâm ông có nhận ra cái biết từ bên trong thân ra, hay do ngoài thân mà có? Nếu từ trong thân ra thì phải trở lại thấy trong thân. Nếu từ ngoài vào thì trước hết phải thấy được mặt của ông. A-Nan thưa Thấy là ở con mắt, còn cái biết nơi tâm thì không phải do mắt, tâm thấy là không hợp lý. * Đức Phật bảo Giả sử như mắt có thể thấy thế khi ông ở trong nhà, cái cửa có thể thấy được chăng? Cũng thế, khi người chết, mắt họ vẫn còn, lẽ ra vẫn còn thấy được vật. Nếu thấy được vật, sao gọi là chết? Lại nữa A Nan, nếu tâm hiểu biết của ông có tự thể, thì có một thể hay nhiều thể? Nó ở nơi thân ông là khắp cả thân hay chẳng khắp cả thân? Nếu tâm chỉ có một thể thì khi ông lấy tay gãi một chỗ trên thân thì lẽ ra các nơi khác trên thân đều có cảm giác. Nếu tất cả thân phần đều có cảm giác, thì chỗ gãi không nhất định. Nếu chỗ gãi nhất định thì nghĩa tâm có một thể là không hợp lý. Nếu có nhiều thể thì thành ra có nhiều người. Vậy thể nào là của ông? Nếu ở khắp thân thì như đã nói trước đây, nếu chẳng khắp thân thì khi ông xoa đầu rồi sờ chân, nếu đầu biết thì chân phải không biết. Nhưng trường hợp này không đúng với ông. Thế nên phải biết, tùy chỗ hòa hợp, tâm theo đó mà hiện hữu là không hợp lý. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Chấp Tâm ở chính giữa A-Nan bạch Phật Bạch Thế Tôn, con được nghe khi Thế Tôn cùng với ngài Văn Thù Sư Lợi và các vị pháp vương tử bàn về nghĩa thực tướng. Thế Tôn nói Tâm chẳng phải ở trong, cũng không phải ở ngoài. Theo con suy nghĩ, nếu tâm ở bên trong mà không thấy được vật bên trong, còn ở ngoài thì tâm và thân chẳng biết nhau. Vì tâm không biết ở trong, nên nghĩa ở trong không hợp lý. Vì thân tâm biết nhau, nên nói tâm ở ngoài cũng chẳng phải. Nay vì thân tâm biết nhau, và lại cũng không thấy được bên trong, nên tâm chắc chắn ở giữa. Đức Phật bảo Ông nói tâm ở giữa, chỗ ấy hẳn là không phải bỗng dưng mà có, hoặc không có vị trí nhất định. Nay ông phải xét kỹ, điểm giữa ấy là nơi nào? Là tại cảnh bên ngoài, hay là ở trên thân? Nếu điểm giữa ấy ở nơi thân, khi ở một bên thân thì chẳng phải là ở giữa. Nếu ở giữa thân thì đồng như ở trong thân. Nếu điểm giữa là nơi cảnh, thì điểm ấy nêu ra được hay không nêu ra được? Nếu không nêu ra được thì đồng như không có, còn nêu ra được thì điểm ấy không có vị trí nhất định. * Tại sao? Ví như có người cắm cây nêu để làm điểm giữa, nếu nhìn từ phương Đông thì cây nêu ở phía Tây, nếu nhìn từ phương Nam thì cây nêu ở phía Bắc. Tiêu điểm đã không rõ ràng thì tâm ông cũng thành rối loạn. A-Nan thưa Con nói điểm giữa, chẳng phải là hai thứ ấy. như Thế Tôn dạy, mắt gặp sắc trần, duyên sanh nhãn thức. Mắt thì có phân biệt, còn sắc trần thì vô tri. Thức phát sinh trong khoảng giữa ấy, đó chính là tâm con. Đức Phật bảo Tâm ông nếu ở khoảng giữa căn và trần, vậy tâm thể ấy gồm cả hai bên, hay không gồm cả hai bên? Nếu gồm cả hai bên thì căn trần lẫn lộn. Trần thì không biết, căn thì có biết, hai thứ đối lập nhau. Chỗ nào gọi là điểm giữa? Gồm cả hai bên cũng không được, vì không phải có biết và cũng không phải không có biết, tức là không có thể tánh. Điểm giữa ấy lấy gì làm tướng? Thế nên phải biết tâm ở chặng giữa là không có lý. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Chấp Tâm ở cái không dính mắc A-Nan bạch Phật Bạch Thế Tôn, xưa nay con thấy Phật cùng bốn vị đệ tử lớn là ngài Đại Mục Kiền Liên, Tu bồ-đề, Phú-lâu-na, Xá-lợi-phất cùng chuyển pháp luân. Đức Phật thường nói tâm tánh hiểu biết phân biệt không phải ở trong, không phải ở ngoài, không phải ở chặng giữa, đều không có nơi chỗ. Hết thảy đều không dính mắt, đó gọi là tâm. Vậy cái không dính mắc của con có được gọi là tâm chăng? Đức Phật bảo A-Nan Ông nói bản tánh của tâm hiểu biết phân biệt này đều không ở tại đâu cả. Vậy các vật có hình tướng trên thế gian như hư không và các loài thủy, lục, không, hành… tất cả các vật. Cái dính mắc mà ông nói đó là hiện hữu hay không hiện hữu? Nếu không hiện hữu thì đồng như lông rùa sừng thỏ. Sao gọi là không dính mắc? Nếu đã có cái không dính mắc thì không thể gọi là không. Không tướng thì không. Chẳng không thì phải có tướng. Có tướng thì phải có chỗ nơi, làm sao lại nói là không dính mắc? Thế nên phải biết tất cả cái không dính mắc mà gọi là tâm hiểu biết, là không có lý. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Vọng Tâm – Tâm Phân Biệt Khi ấy A-Nan ở trong đại chúng, đứng dậy bày vai áo bên phải, đầu gối bên phải quỳ xuống đất, chắp tay cung kính bạch Phật Con là em nhỏ nhất của Thế Tôn. Nhờ Thế Tôn thương yêu, nay tuy con đã xuất gia, nhưng vẫn còn ỷ lại lòng yêu thương của Thế Tôn, do đó chỉ được đa văn mà chưa được quả vô lậu. Nên con không thể chiết phục được chú thuật Ta-tỳ-ca-la, bị nó xoay chuyển và sa vào nhà dâm, tất cả chỉ vì không biết chỗ quy hướng chân tâm. Cúi mong đức Thế Tôn mở rộng lòng từ, thương xót chỉ dạy cho chúng con, pháp tu thiền định xa-ma-tha, khiến cho hàng nhất-xiển-đề và miệt-lệ-xa thoát khỏi tà kiến. Sau khi thưa thỉnh, A-Nan gieo năm vóc xuống đất, cùng toàn thể đại chúng kính cẩn đứng trông chờ được nghe lời chỉ dạy của Đức Phật. Khi ấy từ trên cửa mặt khoảng giữa hai chân mày của Đức Thế Tôn phóng ra các thứ hào quang. Các hào quang ấy sáng chói như trăm ngàn mặt trời. * Sáu điệu chấn động khắp các cõi Phật. Mười phương cõi nước như số vi trần đồng thời hiện ra. Do oai thần của Phật, khiến các thế giới vi trần ấy hợp thành một cõi. Trong các cõi nước ấy, các vị Đại Bồ Tát ở nơi quốc độ của mình đều chắp tay lắng nghe lời Phật dạy. Đức Phật bảo A-Nan Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, theo các thứ điên đảo, tự nhiên tạo thành các giống nghiệp như chùm hạt ác-xoa. Những người tu hành không thành được đạo vô thượng bồ-đề, mà chỉ thành Thanh Văn, Duyên Giác; Hoặc thành ngoại đạo, chư thiên, ma vương và quyến thuộc của ma… Đều do không biết hai món căn bản, nên tu tập sai lầm. Họ cũng như người nấu cát mà mong thành cơm. Dù có trải qua nhiều kiếp như vi trần nhưng rốt ráo vẫn không thể đạt được những gì mong muốn. Những gì là hai món căn bản? * A-nan, một là căn bản sinh tử, từ vô thỉ, chính là tâm phan duyên mà hiện nay ông và toàn thể chúng sinh nhận làm tự tánh. Thứ hai là nguyên thể thanh tịnh của bồ đề niết bàn từ vô thỉ. Đó chính là cái thức tinh nguyên minh của ông. Hiện nay hay sinh khởi các duyên bị ông quên mất. Do các chúng sinh bỏ quên tánh bản minh này, tuy trọn ngày mình sử dụng nó mà chẳng tự biết, nên bị trôi lăn oan uổng trong các cõi. A-Nan, nay ông muốn biết con đường tu tập thiền định, với ước nguyện được thoát khỏi sinh tử, tôi lại hỏi ông. Như Lai đưa cánh tay sắc vàng lên, co năm ngón tay lại rồi Đức Phật hỏi A-Nan, Ông có thấy chăng? A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, con có thấy. Đức Phật hỏi Ông thấy cái gì? A-Nan đáp Con thấy Như Lai đưa cánh tay lên và co năm ngón lại thành nắm tay sáng chói chiếu vào tâm và mắt của con. Đức Phật hỏi Ông lấy cái gì để thấy? A-Nan thưa Cả đại chúng và con đều thấy bằng mắt. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Chấp suy nghĩ Phân biệt làm Tâm Đức Phật bảo A-Nan; Như ông vừa trả lời, nói rằng Như Lai co năm ngón lại thành nắm tay sáng chói chiếu vào tâm và mắt ông. Mắt ông có thể thấy được, nhưng ông lấy gì làm tâm để cho nắm tay sáng chói chiếu vào? A-Nan thưa Đức Phật gạn hỏi tâm ở chỗ nào, nay con dùng tâm suy xét cùng tột để tìm kiếm. Con cho rằng chính cái biết suy nghĩ tìm kiếm ấy là tâm con. Đức Phật bảo Sai rồi A-Nan, đó chẳng phải là tâm ông. A-Nan giật mình, rời chỗ ngồi, đứng dậy chắp tay bạch Phật Đó chẳng phải là tâm của con, vậy thì nó là gì?` Đức Phật bảo A-Nan Đó là sự tưởng tượng những tướng giả dối của tiền trần, nó làm mê mờ chân tánh của ông. Do từ vô thỉ đến nay, ông nhận giặc này làm con, bỏ mất tánh nguyên thường nên phải chịu luân hồ̀i. A-Nan bạch Phật Bạch Đức Thế Tôn, con là em của Phật, vì tâm kính yêu Phật nên con xuất gia. Tâm con chẳng những cúng dường Như Lai mà còn trải qua nhiều quốc độ như cát sông Hằng, thừa sự chư Phật và thiện tri thức. Phát tâm đại dõng mãnh, làm tất cả những pháp sự khó làm là đều vận dụng tâm này. Dù con có hủy báng Phật pháp, rời bỏ thiện căn, cũng do tâm này. * Nay Đức Phật chỉ rõ cái ấy không phải là tâm, thì con thành ra không có tâm, như gỗ như đá. Vì ngoài cái hay biết ấy ra, con chẳng còn gì khác nữa. Sao Như Lai lại bảo cái ấy chẳng phải là tâm? Con thật kinh sợ và trong đại chúng ai cũng nghi hoặc. Cúi xin Đức Phật rủ lòng từ bi chỉ dạy cho những người chưa được giác ngộ. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn chỉ dạy cho A-Nan và cả đại chúng, muốn cho tâm họ được vô sanh pháp nhẫn. Từ nơi toà sư tử, Đức Phật xoa đầu A-Nan rồi Đức Phật bảo rằng Như Lai thường nói các pháp phát sinh đều do từ tâm biểu hiện. Tất cả nhân quả và thế giới nhiều như vi trần đều nhân nơi tâm mà có thể tánh. A-Nan, như tất cả sự vật hiện hữu trong thế giới từ ngọn cỏ, lá cây, sợi dây, nút thắt … Khi gạn xét cội gốc của nó, mỗi thứ đều có thể tánh. Cho đến như hư không cũng có tên gọi và dáng mạo. Huống gì bản tâm thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu này là bản chất của tất cả mọi tâm niệm mà tự nó lại không có thể tánh hay sao? * Nếu ông chấp chặt tánh phân biệt hiểu biết, cho đó là tâm; Thì tâm này khi rời tất cả sắc thanh, hương, vị xúc, thì tâm ấy phải riêng có toàn tánh. Như ông nay nghe pháp của Như Lai, đó là nhân âm thanh mà có sự phân biệt. Dù có diệt hết cái thấy, nghe, hiểu, biết mà giữ được sự thanh thản, lặng lẽ bên trong, đều do bóng dáng của sự phân biệt pháp trần vẫn còn. Chẳng phải tôi bảo ông chấp cái ấy không phải là tâm. Nhưng ông phải suy xét chính chắn, nếu có một thể tánh phân biệt khi rời hẳn tiền trần thì đó chính là tâm ông. Nếu tánh phân biệt này khi rời hẳn tiền trần mà không còn tự thể thì đó chỉ là bóng dáng phân biệt của tiền trần. Trần ấy chẳng phải là thường trụ, khi nó biến diệt thì cái tâm ấy cũng như lông rùa sừng thỏ. Ắt pháp thân ông cũng đồng như đoạn diệt. Ai là người tu chứng vô sanh pháp nhẫn? Lúc ấy A-Nan cùng toàn thể đại chúng đều im lặng, ngơ ngác. Đức Phật bảo A-Nan Tất cả mọi người tu học trong thế gian, mặc dù nay đã được cửu thứ đệ định; Nhưng không hết sạch mê lầm, thành bậc A La Hán; Đều do vì chấp vào vọng tưởng sinh diệt, lầm cho đó là tính chân thực. Thế nên nay ông tuy được học rộng nghe nhiều mà chưa thành thánh quả. * A-Nan nghe rồi đau xót khóc lóc, gieo năm vóc sát đất, quỳ xuống chắp tay bạch Phật. Từ khi con phát tâm xuất gia theo Phật, chỉ biết ỷ lại vào oai thần của Phật. Con thường nghĩ rằng, khỏi phải nhọc công tu hành làm gì, hy vọng Như Lai sẽ ban cho con chánh định. Con không tự biết thân và tâm của Phật và con chẳng thay thế cho nhau được. Vậy nên con tự đánh mất bản tâm, tuy thân đã xuất gia mà tâm chẳng nhập đa. Con như người cùng tử bỏ cha trốn đi. Ngày nay mới biết, tuy được nghe Phật pháp nhiều, nếu chẳng tu hành thì cũng như chưa nghe. Như người chỉ nói đến thức ăn, rốt cục chẳng được no bụng. Bạch Thế Tôn! Nay chúng con đều bị trói buộc bởi hai thứ chướng ngại, do chẳng biết tâm tánh vốn thường hằng vắng lặng. Cúi mong Như Lai thương xót kẻ nghèo cùng cơ cực, làm phát khởi tâm nhiệm mầu sáng suốt, mở bày mắt đạo cho chúng con. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tánh Thấy chẳng phải là Mắt Khi ấy từ chữ vạn ở trên ngực Như Lai phóng ra hào quang báu, ánh sáng rực rỡ với trăm ngàn màu sắc, chiếu sáng đồng thời suốt khắp mười phương thế giới chư Phật nhiều như số vi trần. Hào quang ấy rót xuống trên đảnh các đức Như Lai ở các cõi Phật trong khắp mười phương. Xoay về soi đến A-Nan và toàn thể đại chúng. Rồi Đức Phật bảo A-Nan Nay Như Lai vì ông dựng lập pháp tràng lớn. Khiến cho tất cả chúng sinh khắp mười phương đạt được tâm tánh trong sạch, sâu kín nhiệm mầu và đạo nhãn thanh tịnh. A-Nan, trước đây ông đã trả lời rằng thấy nắm tay chói sáng. Vậy nắm tay này nhân đâu mà có? Làm sao nắm tay trở nên sáng chói? Ông lấy cái gì để thấy? A-Nan thưa Thân của Phật như vàng diêm-phù-đàn sáng ngời như núi báu. Do đức tính thanh tịnh sinh ra, vậy nên có hào quang chói sáng. Con thật đã dùng mắt xem thấy năm ngón tay Phật co lại thành nắm tay, đưa lên cho mọi người xem. Đức Phật bảo A-Nan Hôm nay Như Lai chân thật nói với ông. Những người có trí cần phải dùng ví dụ mới được khai ngộ. A-Nan, ví như nắm tay của Như Lai, nếu không có bàn tay thì chẳng thành nắm tay. Nếu không có mắt thì ông không thể thấy. Áp dụng ví dụ nắm tay của Như Lai và cái thấy từ mắt ông có giống nhau chăng? * A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, đúng như vậy. Nếu không có mắt thì không thành cái thấy. Nếu đem ví dụ nắm tay của Phật so với cái thấy từ mắt của con, nghĩa ấy như nhau. Đức Phật bảo A-Nan Ông nói giống nhau, nghĩa ấy không đúng. Sao vậy? Nếu một người không có tay thì hẳn nhiên là không có nắm tay. Nhưng những người mù, chẳng phải họ hoàn toàn không có cái thấy. Bởi tại sao? Ông thử ra đường hỏi những người mù mắt Ông thấy gì không? Các người mù chắc chắn sẽ đáp Nay tôi chỉ thấy một màu tối đen trước mắt, ngoài ra không thấy gì khác. Theo nghĩa ấy mà quán xét thì đã rõ. Người mù thấy màu tối đen phía trước, chứ cái thấy của họ đâu có thiếu mất. A-Nan thưa Cái duy nhất mà người mù có thể thấy được trước mắt là màu tối đen. Sao có thể gọi là thấy được? Đức Phật bảo A-Nan Có gì khác nhau giữa màu tối đen mà người mù thấy được và màu tối đen mà người sáng mắt nhìn thấy khi họ ở trong phòng tối? A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Hai màu tối đen, một do người ở trong phòng tối thấy và một do người mù thấy không có gì khác nhau. * Đức Phật bảo A-Nan, nếu người mù chỉ thấy được màu tối đen khi bỗng dưng được sáng mắt lại, thấy được đủ loại sắc tướng. Ông gọi đó là do mắt thấy. Và khi người ở trong phòng tối kia, chỉ thấy phía trước hoàn toàn tối đen, bỗng dưng thấy được mọi vật nhờ có đèn sáng. Lẽ ra nên gọi đèn thấy là đúng hơn. Nếu cái thấy do đèn thì đèn đã có được cái thấy, nên chẳng gọi là đèn; Và nếu là đèn thấy thì quan hệ gì đến ông? Thế nên phải biết, đèn làm hiển lộ các vật thể. Còn cái thấy đó là do ở mắt, chứ không phải đèn. Khi mắt nhận rõ các vật thể thì tánh thấy đó chính là tâm, chẳng phải là mắt. Mặc dù A-Nan và đại chúng được nghe đức Phật chỉ dạy như vậy. Nhưng tâm chưa được khai ngộ nên vẫn im lặng, mong Như Lai dùng lời từ bi chỉ dạy thêm. Nên đứng chắp tay, lắng lòng trông chờ Đức Phật thương xót chỉ bày. Khi ấy, Đức Thế Tôn duỗi cánh tay đâu-la miên sáng chói, xoè năm ngón tay, bảo A-Nan cùng toàn thể đại chúng Khi mới thành đạo, Như Lai đến vườn Lộc uyển, có dạy cho năm anh em tỷ khưu A-nhã Kiều-trần-như cùng ông và tứ chúng rằng Tất cả chúng sinh bị mê hoặc bởi khách trần phiền não nên chẳng được giác ngộ, chẳng chứng quả A La Hán. Lúc đó các ông nhân đâu mà được khai ngộ, thành tựu quả vị thánh? * Rồi A-nhã Kiều-trầ̀n-na đứng dậy bạch Phật Nay hàng trưởng lão trong đại chúng, chỉ riêng con được danh hiệu là Giải. Nhờ ngộ được nghĩa hai chữ khách trần mà thành tựu quả vị. Bạch Thế Tôn, như người du khách dừng chân nghỉ lại một quán trọ bên đường để ngủ qua đêm hoặc chỉ ăn một bữa. Khi việc lưu trú hoặc ăn uống đã xong, họ liền chuẩn bị hành lý lên đường, không ở lại nữa. Nếu họ thật là người chủ thì chẳng phải đi đâu. Như thế mà suy sét, người chẳng dừng nghỉ lâu gọi là khách, người dừng trụ lâu gọi là chủ. Do không dừng trụ, nên có nghĩa là khách. Lại như khi mưa vừa mới tạnh, mặt trời lấp lánh trên cao; Tia sáng chiếu vào nhà thông qua khe cửa, làm hiện rõ các hạt bụi trong hư không. Bụi trần lay động, còn hư không thì yên lặng. Thế nên con suy nghĩ, trong lặng gọi là hư không lay động là trần. Do lay động mà có nghĩa là trầ̀n. Đức Phật bảo Đúng như thế! Khi ấy ở trong đại chúng, Như Lai co năm ngón tay lại, co rồi lại mở, mở rồi lại co. Đức Phật hỏi A-Nan rằng – Nay ông thấ́y gì? A-Nan thưa Con thấy bàn tay bách bảo luân của Như Lai, xoè ra nắm lại giữa hội chúng. * Đức Phật bảo A-Nan Ông thấy tay Như Lai xoè ra nắm lại trong đại chúng. Đó là tay Như Lai xoè ra nắm lại, hay cái thấ́y của ông có xoè ra nắm lại? A-Nan thưa Bàn tay báu của Thế Tôn có xoè nắm trong đại chúng. Con thấy bàn tay của Như Lai tự xoè ra nắm lại, chớ chẳng phải tánh thấy của con có xoè nắm. Đức Phật hỏi Cái nào động, cái nào tịnh? A-Nan thưa Bàn tay Phật không dừng nghỉ. Còn tánh thấy của con còn chẳng có ý niệm về sự yên tĩnh, làm sao còn có động? Đức Phật đáp Đúng như vậy! Bấy giờ từ trong lòng bàn tay, Như Lai phóng ra một đạo hào quang báu chiếu đến vai bên phải của A-Nan. A-Nan liền quay đầu qua bên phải để nhìn. Đức Phật lại phóng hào quang khác qua phía vai bên trái. A-Nan liền quay đầu về bên trái để nhìn. Đức Phật bảo A-Nan Nay đầu ông tại sao lay động? * A-Nan thưa Con thấy Như Lai phóng đạo hào quang báu chiếu vào vai bên phải rồi vai bên trái của con, nên đầu con tự lay động. Đức Phật bảo A-Nan, khi ông nhìn hào quang của Như Lai, đầu ông xoay qua hai bên vai, thì đầu ông động hay cái thấy của ông động? A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, chính đầu con động, bởi tánh thấy của con còn không có ý niệm dừng chỉ, làm sao có động? Đức Phật nói Đúng như vậy! Khi ấy Đức Phật lại bảo khắp đại chúng Giả sử có người khác gọi cái động là trần, cái không dừng trụ gọi là khách.” Các ông lưu ý rằng chính đầu của A Nan dao động chứ cái thấy không dao động. Các ông cũng để ý rằng tay Như Lai có co mở, chứ cái thấy không co mở. Tại sao nay các ông vẫn còn nhận cái động làm thân và nhận các cảnh làm hiện thể? Nên từ đầu đến cuối, các ông ở trong niệm niệm sinh diệt. Các ông bỏ mất chân tánh, làm những việc điên đảo. Đã đánh mất tâm tánh chân thật rồi, còn nhận vật làm chính mình, nên chính mình bị trôi lăn theo vòng lưu chuyển. Kinh Lăng Nghiêm – Hết quyển 1
Huyễn Biết mộng là huyễn sao vẫn mộng Đêm mộng ngày tu pháp hư huyễn Cãnh huyễn thân huyễn tâm chưa huyễn Tâm huyễn pháp huyễn ly huyễn, GIÁC Giác Dĩ huyễn độ chân Thân tâm pháp huyễn Hà dĩ trụ ly Vô giác bổn giác
phim kinh lăng nghiêm